Bướu cổ không phải là căn bệnh xa lạ gì với
mỗi chúng ta. Không chỉ gặp ở người trưởng thành, tỉ lệ trẻ em bị
bướu cổ cũng ngày càng cao. Do thói quen ăn uống hằng ngày ăn thường
xuyên một số loại rau củ như bắp cải, củ cải, hoa lowa, sắn... cũng
có thể gây bưới cổ.
Bướu cổ đơn thuần là tình trạng tuyến giáp tăng về thể
tích, lan tỏa hay khu trú không kèm theo dấu hiệu tăng hay giảm chức năng tuyến
giáp, không viêm cấp, bán cấp, mạn tính hoặc ác tính. Nguyên nhân cơ bản gây bướu
cổ là do thiếu iod. Hằng ngày, cơ thể cần 150-200 mcg iod nguồn gốc từ thức ăn,
nước uống, không khí... Nếu sống ở vùng thiếu iod, nước uống, các loại động thực
vật ở đó cũng thiếu iod, hậu quả là cơ thể không nhận đủ số lượng iod cần thiết.
Dưới dây là những yếu tố làm tăng nguy cơ bướu cổ:
- Một số chất hòa tan trong nước: Trong nước ở một
số vùng núi có nhiều canxi, ma giê, fluo..., làm cho nước có độ cứng cao, gây ảnh
hưởng đến sự tổng hợp hoóc môn tuyến giáp và gây bướu cổ.
- Các thuốc thiocyanad, thionamid, cobalt...
có thể gây ức chế tập trung iod và ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp hoóc môn
tuyến giáp.
- Di truyền: Một số trường hợp có tính chất gia
đình, thường do rối loạn tổng hợp hoóc môn tuyến giáp bẩm sinh. Bướu cổ thường
kèm theo câm điếc, gọi là hội chứng Pendred do rối loạn hữu cơ hóa iod.
- Bệnh mạn tính: Các bệnh viêm đại tràng mạn,
tiêu chảy mạn, bệnh thận mạn tính... gây rối loạn hấp thu và thải trừ iod.
- Tuổi: Trẻ em dễ bị bướu cổ hơn người lớn, đặc
biệt là ở tuổi dậy thì vì lúc này, nhu cầu hoóc môn tuyến giáp ở ngoại vi rất
cao.
- Giới: Bướu cổ thường gặp ở nữ, nhất là ở
tuổi dậy thì, khi có kinh, khi cho con bú vì lúc đó nhu cầu hoóc môn tuyến giáp
tăng và oestrogen ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa hoóc môn tuyến giáp.
- Điều kiện sinh hoạt: Nhà ở quá chật, thiếu vệ
sinh, ăn uống thiếu thốn cũng là nguyên nhân thiếu iod và gây bướu cổ. Tùy theo
bướu cổ to hay nhỏ mà triệu chứng lâm sàng khác nhau. Bướu cổ to nhiều sẽ nhìn
thấy ngay ở trước cổ; nếu to vừa cổ hơi đầy. Bướu cổ nhỏ hơn khó nhìn thấy ở tư
thế bình thường nhưng khi ngửa cổ có thể nhìn thấy. Khi nuốt sẽ thấy bướu cổ di
động theo nhịp nuốt. Bướu cổ đơn thuần thường thể tích to vừa, đồng đều, mềm,
nhẵn. Đôi khi độ to của bướu thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt. Một số trường hợp
thấy các biểu hiện thần kinh nhạy cảm: hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim
nhanh... dễ nhầm với cường giáp trạng. Trường hợp bướu cổ quá to có thể gây
chèn ép vào thực quản, khí quản gây khó nuốt, khó thở.
Bướu cổ đơn thuần ở trẻ em có thể tự khỏi, đôi khi gây
một số biến chứng chèn ép vào khí quản, thực quản, đần, giảm trí tuệ, chậm phát
triển thể chất, cường giáp. Bệnh có thể điều trị nội khoa bằng cách dùng hoóc
môn giáp trạng theo chỉ định của bác sỹ, đa số trường hợp diễn biến tốt. Phẫu
thuật được chỉ định khi điều trị nội khoa lâu ngày không đỡ và trở thành bướu
nhân. Bướu nhiều nhân, bướu quá to sẽ gây chèn ép làm khó nuốt, bướu lạc chỗ hoặc
bướu có xu hướng ác tính.
Từ bài viết này,các bậc phụ huynh hãy xây
dựng cho con mình một chế độ ăn uống hợp lý, đầy đủ chất để phòng
tránh được căn bệnh này, giúp con phát triển một cách toàn diện và
khỏe mạnh nhất.
EmoticonEmoticon